Bài viết Làm sao ổn định độ mặn trong ao nuôi tôm? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Độ mặn là nồng độ của tất cả các muối khoáng có trong nước, nó được đo bằng khúc xạ kế đo độ mặn và tính bằng đơn vị phần nghìn ppt . Độ mặn của nước rất quan trọng, ảnh hưởng rất nhiều đến sự tồn tại, phát triển và giúp duy trì các chức năng sinh lý của tôm. Thông qua quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu, tôm phải duy trì hàm lượng muối khoáng hòa tan trong cơ thể chúng ở mức độ ổn định. Cũng như nhiệt độ, mỗi loài cá, tôm đều có khoảng độ mặn thích hợp để sinh trưởng và phát triển.
Tôm thẻ chân trắng chịu được mức độ mặn dao động từ 2 – 40‰, tôm sinh trưởng và phát triển tốt trong độ mặn phù hợp tầm 10 – 25‰. Nếu như yếu tố ở mức thấp thì cần bổ sung dưỡng chất cần thiết ở trong thức ăn để tăng đề kháng, giúp cho tôm có thể phát triển.
Trong nuôi tôm, độ mặn có thể được đo bằng khúc xạ kế cầm tay.
Tôm sú sống ở trong môi trường với độ mặn dao động 3 – 45‰, thích hợp dao động khoảng 15 – 20‰. Nếu như độ mặn vượt quá 35‰ thì tôm sẽ chậm lớn và chán ăn.
Tôm thẻ chân trắng ngày càng được nuôi nhiều ở độ mặn thấp, do chúng có khả năng thích nghi cao. Trong giai đoạn giống, Tôm thẻ chân trắngluôn sống trong môi trường có độ mặn khá cao, nhưng sau quá trình thuần hóa nhờ sức chịu đựng cao mà ở những vùng có độ mặn thấp tôm vẫn sống và phát triển tốt được. Trường hợp độ mặn quá thấp, dưới 5‰, các ion Ca2+, Mg2+, Na+, K+… trong nước với hàm lượng thấp làm cho quá trình lột xác của tôm diễn ra không đồng đều, tôm dễ bị mềm vỏ sau khi lột làm tăng tỷ lệ hao hụt lên gấp nhiều lần. Sau khi trời mưa, nước ao bị giảm độ mặn đột ngột cũng ảnh hưởng rất lớn đến tôm, nhất là quá trình lột xác của tôm bị kích thích mà chất dinh dưỡng cũng như khoáng chất cần thiết cho quá trình mềm vỏ không đủ để cung cấp. Do đó, tôm bị suy giảm sức đề kháng và rất dễ bị vi khuẩn tấn công, gây nên các bệnh nguy hiểm, tiếp đó làm tôm nhạy cảm nhiều hơn với các chất độc chứa nitơ như NH3, NO2…
Ngược lại khi Tôm thẻ chân trắng sống trong môi trường có độ mặn quá cao, trên mức chịu đựng, tôm sẽ còi cọc, chậm lớn, thậm chí là sốc và chết hàng loạt. Hơn nữa khi độ mặn tăng cao, bệnh phân trắng và hoại tử gan tụy cấp tính sẽ diễn biến hết sức phức tạp, gây nên dịch bệnh làm thiệt hại rất lớn về mặt kinh tế. Độ mặn cao sẽ gây biến đổi một số thông số môi trường như pH, độ kiềm. Bên cạnh đó, còn làm tảo trong ao nuôi tôm phát triển nhanh, sinh nhiều khí độc… Đặc biệt, nguồn ôxy trong nước sẽ càng tăng mạnh vào ban ngày, nhưng lại giảm tối thiểu vào ban đêm. Khi đó, môi trường sẽ thiếu ôxy, dẫn đến tôm thường nổi đầu vào lúc nửa đêm.
Thay nước thường xuyên khoảng 3 lần/ngày, chú ý chỉ nên thay từ 20 – 30% lượng nước trong ao. Điều tiết nguồn nước duy trì độ mặn ổn định bằng cách sử dụng ao lắng để trữ nước mưa cung cấp cho ao nuôi.
Sử dụng quạt nước vào chiều tối, đêm và gần sáng, hoặc những thời điểm nắng nóng, mưa lớn kéo dài ngày để cung cấp ôxy, giải phóng khí độc ao nuôi tôm. Đồng thời cần sục khí thường xuyên nhằm chống stress cho tôm.
Điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp với tình hình thời tiết, vì mức độ tiêu thụ thức ăn của tôm cũng dựa vào nhiệt độ, độ mặn của môi trường sống. Hạn chế việc dư thừa thức ăn sẽ giúp môi trường nước sạch, giảm độ mặn.
Độ mặn và nhiệt độ tăng cao sẽ khiến cho quá trình phân hủy hữu cơ nhanh hơn, cần dọn lớp mùn bã dày ở đáy, đồng thời giảm mùi hôi do tảo tàn và xử lý khí độc. Người nuôi có thể tham khảo sử dụng các chế phẩm sinh học để xử lý bùn đáy ao nuôi giúp tôm có môi trường sống tốt nhất để phát triển; và bổ sung men vi sinh đường ruột cho tôm, Vitamin C… giúp tăng sức đề kháng cho tôm.
Mực nước nên được giữ ở độ sâu từ 1,2 m trở lên để ổn định nhiệt độ ao. Để giảm nhiệt độ ao, cần lắp đặt hệ thống lưới chắn chống nắng hoặc sử dụng bạt căng trên mặt ao tôm.
Lưu ý, cần hạ độ mặn từ từ để tôm có thể thích nghi được. Cứ 3 giờ hạ một lần, mỗi lần hạ không quá 2% cho đến khi độ mặn ở mức lý tưởng. Ở tháng đầu tiên, kiểm soát sao cho độ mặn ao phù hợp không thấp hơn 7 – 8%. Sang tháng thứ 2, bổ sung thêm nước ngọt vào ao, độ mặn sẽ hạ dần dần. Lưu ý, không được dưới 5% vì độ mặn thấp hơn 5% sẽ làm tôm bị mềm vỏ, tỷ lệ sống thấp. Nên lấy nước từ ao lắng có diện tích khoảng 15 – 20% so với ao nuôi, độ sâu từ 1,5 m để có thể cấp nước đủ cho ao nuôi, và ao lắng cần xử lý nước ít nhất 6 ngày trước khi cấp vào ao tôm.
Khử trùng và làm ổn định nồng độ pH trong ao nuôi tôm bằng cách sử dụng 22 kg vôi bột/100 m2 nước. Rắc vôi ở gần bờ và không thả quá nhiều bởi sẽ khiến cho tôm chết. Tốt hơn hết, người nuôi cần thả vôi trước khi tiến hành thả tôm. Sau khi rắc vôi xong, người nuôi rải đều 1 – 3 tấn muối/1.000 m2 để khoáng hóa đáy ao và giữ được độ mặn trong ao nuôi tôm.
Trong ao nuôi tôm độ mặn thấp, cần bổ sung khoáng chất đa vi lượng cho tôm kết hợp 5 kg magie clorua + 3 kg kali clorua trên 1.000 m3 nước. Lặp lại định kỳ 4 – 5 ngày/lần.
Trợ lực và trợ sức cho tôm bằng cách bổ sung Vitamin C vào trong thức ăn với liều lượng 2 – 3 g/100 kg tôm/ngày. Cho ăn liên tục trong vòng 5 ngày.
Người nuôi có thể sử dụng các chế phẩm vi sinh để tạo môi trường sống tốt nhất cho tôm, tăng khả năng đề kháng của tôm. Đây là phương pháp vừa an toàn, tiết kiệm, mang lại hiệu quả tốt nhất cho người nuôi tôm. Tùy vào từng diện tích, người nuôi áp dụng cách để kiểm soát độ mặn sao cho phù hợp.
Bài viết Làm sao ổn định độ mặn trong ao nuôi tôm? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Phương pháp xử lý tảo độc trong ao nuôi tôm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Trong khoảng 30 ngày đầu tiên ao nuôi thường có màu xanh nhạt, bắt đầu từ những ngày sau đó nước sẽ đậm dần cho đến khi thu hoạch. Màu nước thay đổi và đậm dần nguyên nhân chính là do quá trình cho ăn các chất hữu cơ dư thừa bị tích tụ lại giúp tảo phát tiện nhanh chóng, làm giảm lượng ôxy hòa tan trong nước dẫn đến hiện tượng tôm bị nổi đầu. Vôi có nhiều tác dụng trong xử lý môi trường, đặc biệt có thể dùng để cắt tảo độc. Cơ chế cắt tảo của vôi: Vôi (CaO) hòa tan trong nước tạo ra Ca(OH)2 mang tính bazơ, khi đánh xuống ao sẽ làm tăng pH cục bộ trong ao, khoảng pH tăng cao không nằm trong ngưỡng thích nghi của tảo, dẫn đến làm chết tảo, từ đó sẽ cắt được tảo trong ao.
Khi thấy ao nuôi có nhiều tảo độc, người nuôi cần sử dụng vôi để xử lý bằng cách ngâm vôi hoặc vỏ sò vào lúc 2h chiều, chờ đến 3 giờ sáng thì mang vôi tạt đều quanh ao với liều lượng 30 kg/1.000 m3 nước, thực hiện liên tiếp trong 2 ngày. Lưu ý, cắt tảo bằng vôi nên thực hiện vào lúc trời mát, tốt nhất vào ban đêm để tránh ảnh hưởng đến tôm. Thời gian tạt vôi tốt nhất là 11 – 12 giờ đêm, tránh tạt vôi vào buổi trưa vì dễ gây tăng pH, làm cho tôm bị chết do sốc nhiệt. Đối với ao bạt, sau khi thực hiện việc cắt tảo bằng vôi, người nuôi nên xi phông đáy ao để tránh hiện tượng tích tụ vôi lắng xuống đáy ao, gây ô nhiễm nguồn nước và ảnh hưởng đến tôm.
Chi phí khi sử dụng vôi để cắt tảo thấp nên sẽ tiết kiệm, tuy nhiên sử dụng vôi cắt tảo có nhiều nhược điểm như: cắt tảo tức thời không lâu dài vì ao thừa dinh dưỡng tảo sẽ phát triển mạnh trở lại, vôi cũng làm tăng độ kiềm của nước ao ảnh hưởng đến các yếu tố môi trường khác…
Tảo lam trong ao nuôi tôm phát triển quá mức sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm
Đồng sunfat hay được gọi là phèn xanh, hay có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo mỗi lĩnh vực sử dụng, đây là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học là CuSO4.xH2O, “x” nằm trong khoảng từ 0 đến 5. Trong đó, phổ biến nhất là pentahydrat (x = 5). Chúng là những tinh thể màu xanh lam hoặc xanh tím, dạng bột kết tinh, dễ tan trong nước, không mùi và không cháy. Đồng sunphat là chất dinh dưỡng cần thiết cho hệ động thực vật.
Là hóa chất được sử dụng để diệt các loại ốc, hến, con hai mảnh vỏ. Ngoài ra, nếu sử dụng liều lượng hợp lý thì đồng sunphat có thể diệt được tảo độc trong ao nuôi rất hiệu quả.
Tảo lam trong ao nuôi phát triển quá mức sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm.
Là giải pháp được khuyên dùng vì an toàn và đạt hiệu quả cao. Dùng men vi sinh chủng Bacillus có trong sản phẩm TA-Pondpro, đây là chủng men vi sinh có thể phát triển tốt khi nhiệt độ và nồng độ muối thay đổi. Một số chủng Bacillus sp có khả năng phân hủy nitơ cũng như tiết các enzyme đẩy nhanh quá trình phân hủy hợp chất hữu cơ và các sản phẩm độc như amoniac. Cơ chế cắt tảo bằng vi sinh rất đơn giản đó là bổ sung một lượng lớn các vi khuẩn Bacillus spp vào ao nuôi, chúng sẽ sinh sôi và cạnh tranh sinh học trực tiếp với tảo độc, từ đó làm giảm nguồn dinh dưỡng khiến cho tảo độc giảm dần số lượng từ đó không có khả năng gây hại cho tôm.
Bài viết Phương pháp xử lý tảo độc trong ao nuôi tôm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Hướng dẫn xử lý chất thải lơ lửng trong nuôi tôm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Hiện nay, giải pháp đơn giản để xử lý chất lơ lửng trong ao nuôi tôm là tiến hành thay nước và sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý chất thải hữu cơ. Một trong số các chủng vi sinh xử lý chất lơ lửng ao nuôi hiệu quả nhất hiện nay là chủng Bacillus subtillis có trong sản phẩm vi sinh Kill Para được Tiến sĩ Lê Anh Xuân nghiên cứu và áp dụng thành công. Đây là chủng có khả năng phân hủy chất lơ lửng rất nhanh. Đồng thời, chúng có khả năng tổng hợp được nhiều loại enyzme để tăng khả năng hoạt động lên gấp nhiều lần. Sử dụng men si vinh có thể giúp:
Sản phẩm chứa bacillus subtilis phòng và điều trị hiệu quả bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm
Phòng và điều trị tôm chết 01 tháng tuổi do vi khuẩn Vibrio Parahaemolyticus: trộn vào thức ăn kết hợp tạt xuống ao nuôi.
Trước khi sử dụng, người nuôi hãy liên lạc với nhà cung cấp để được tư vấn kỹ lưỡng hơn, vì liều lượng sử dụng có thể được thay đổi linh hoạt theo thời điểm mùa vụ và tình trạng thực tế của ao nuôi.
Phương pháp xử lý sinh học trong xử lý nước thải nuôi tôm dựa trên nguyên lý của xử lý nước thải. Tại các ao xử lý sinh học, chất hữu cơ lơ lửng sẽ được phân hủy sinh học bằng hệ vi sinh vật có trong ao, cũng như tận dụng đó làm nguồn thức ăn để nuôi các loài thủy sản khác như: Cá rô phi, cá nâu, sò, nghêu… nhằm xử lý các chất rắn lơ lửng, rong tảo. Đối với phương pháp ao sinh học người nuôi không phải tốn quá nhiều chi phí để xử lý nước thải. Bên cạnh đó còn có thể tận dụng nó để nuôi các loại cá trên vừa có thể xử lý nước thải nuôi tôm, vừa tăng thêm thu nhập.
Bài viết Hướng dẫn xử lý chất thải lơ lửng trong nuôi tôm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Nguyên nhân, cách trị tôm bị đóng rong đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh đóng rong cho tôm sú, tôm thẻ:
Khi quan sát tôm sẽ thấy tôm bị đóng rong thường có các dấu hiệu rất dễ nhân biết:
Khi nhận thấy tôm trong ao có hiện tượng đóng rong bà con sử dụng TA-Pondpro, sử dụng 500g/1.500-2.000m3 nước vào lúc 8-9h sáng, dùng 3 ngày liên tiếp vào lúc trời mát để đạt hiệu tốt nhất. TA-Pondpro sẽ giúp sát khuẩn mặt ngoài cơ thể tôm mà không ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng, giúp loại bỏ các vi khuẩn, nấm bám trên cơ thể từ đó tôm sẽ hết bị đóng rong.
Ngoài ra, TA-Pondpro cũng tiêu diệt các vi khuẩn, mầm bệnh trong nước ao, giúp môi trường nước sạch trở lại.
Bài viết Nguyên nhân, cách trị tôm bị đóng rong đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Cách xử lý tôm bị vàng chân, vàng mang đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết này sẽ giúp ích cho bà con, giúp bà con hiểu rõ hơn về tôm bị vàng chân, vàng mang. Vậy do những nguyên nhân nào? Có ảnh hưởng thế nào đến tôm, biện pháp phòng và xử lý như thế nào?
Do trong quá trình nuôi tôm, lớp mùn bã hữu cơ bị tích tụ lâu ngày ở nền đáy ao phân huỷ trong điều kiện môi trường yếm khí, các vi khuẩn yến khí sẽ sinh ra hình thành vi khuẩn khử Sunfua trong môi trường nước, các vi khuẩn này sẽ chuyển hoá các hợp chất lưu huỳnh (trong thực vật, trong đất, trong nước biển) thành dạng khí độc sunfua hydro (H2S) – sát thủ thầm lặng trong ao nuôi tôm.
Khí H2S này thâm nhập vào nước ngầm và kết hợp với sắt (II) có mặt trong trầm tích đất dưới đáy ao tạo thành sắt Sunfua và tiếp tục chuyển hoá thành sắt Bisunfua (pyrit, FeS2) – Đây chính là phèn sắt, phèn đỏ trong ao nuôi tôm.
Làm cho ao nuôi khó gây màu nước, tảo không phát triển được trong điều kiện ao có phèn sắt cao, nước ao hơn trong: phát sinh tảo đáy, khí độc H2S,…
Hợp chất phèn trong nước còn bám vào thân vỏ, đặc biệt là mang, chân làm tôm bị vàng chân, vàng mang, tôm khó hô hấp do mang bị phèn bám vào, tôm bị mất nhiều năng lượng dẫn đến xảy ra hiện tượng tôm chậm lớn, chết rải rác, Tôm lột xác bị dính vỏ đặc biệt đối với tôm còn nhỏ, do phèn trong ao nuôi cao dẫn đến pH giảm thấp làm ngăn cản việc hấp thu khoáng Na+, K+ trong môi trường nước làm tôm thiếu các dưỡng chất khoáng chất cần thiết dẫn đến tôm lột xác không hoàn toàn, bị dính vỏ và chết.
Đối với môi trường nước: màu nước chuyển màu từ màu trà nhạt dần sang hơi đỏ và bắt đầu có váng màu vàng ở trên mặt ao.
Tôm bị vàng chân, vàng mang do nước trong ao nuôi tôm bị nhiễm phèn
Đối với nuôi tôm: tôm bị vàng chân, vàng mang, tôm chết rải rác,…
Khi phát hiện ao nuôi có những biểu hiện bị nhiễm phèn, tôm bị vàng chân, vàng mang bà con cần kiểm tra đo lại các yếu tố môi trường, đặt biệt đo hàng lượng sắt trong môi trường nước.
Cải tạo ao nuôi tôm ban đầu, bón vôi để nâng pH đáy ao, khử phèn đồng thời tạo hệ đệm trong ao nuôi…Liều dùng: 15-20kg vôi/1000m2. Tuy nhiên khi bón vôi đá hoặc vôi nóng cần phải thực hiện trong lúc chiều mát. Sau đó cấp nước và ao ngay hôm sau, không nên rải vôi và phơi ao trong thời gian quá lâu.
Trong quá trình nuôi: Sử dụng vôi bột 10kg/1000m3, định kỳ 20 ngày/lần, hoặc sử dụng trước và sau khi mưa hoặc ao nuôi nổi váng vàng trên mặt nước.
Lót bạt bờ, bạt đáy để hạn chế hiện tượng xì phèn ở ao nuôi tôm.
Ngoài ra bà con có thể dùng TA-PONDPRO xử lý nước và đáy ao vi sinh thay thế hoá chất, trị các bệnh trên tôm – cá.
Bài viết Cách xử lý tôm bị vàng chân, vàng mang đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Cách trị tôm bị mòn râu, cụt đuôi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Để khắc phục những hạn chế này, nâng cao chất lượng thu hoạch người nuôi tôm cần kiểm tra các yếu tố môi trường cũng như các dấu hiệu bệnh trên thân tôm, để kịp thời đưa ra các giải pháp xử lý hiệu quả.
Để phòng và trị dứt điểm 100% tôm bị mòn râu, đứt râu, cụt đuôi, mòn đuôi: bà con cần sử dụng sản phẩm vi sinh TA-PONDPRO sử dụng 500g/1.500-2.000m3 nước vào lúc 8-9h theo bao bì sản phẩm.
Bài viết Cách trị tôm bị mòn râu, cụt đuôi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Bệnh đen mang, đốm đen, đốm nâu trong nuôi tôm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Do các loài vi khuẩn có hại trong ao nuôi gây ra. Những loài vi khuẩn này có khả năng tiết ra các chất có khả năng ăn mòn lớp vỏ chitin của tôm. Chúng thường phát triển mạnh ở các ao có tình trạng giàu dinh dưỡng (ô nhiễm) và tích tụ nhiều loại khí độc như NH3, NO2 và H2S, hàm lượng oxy hoàn tan trong nước thường thấp.
Ngoài vi khuẩn, nhiều nhóm sinh vật khác như động vật nguyên sinh, nấm cũng có thể xâm nhập và gây tổn thương vỏ tôm. Nấm có thể gây tác động xấu đến mang hoặc vỏ tôm và có khuynh hướng kích thích phản ứng tạo nên những mảng đen trên vỏ.
Nhìn chung, những ao nuôi có tôm bị “bệnh đốm đen” khi kiểm tra môi trường ao nuôi phần lớn đều có hàm lượng khí độc NH3 hoặc NO2 vượt ngưỡng cho phép, độ kiềm dưới 100 ppm kéo dài và hàm lượng oxy không đạt ngưỡng tối ưu 6 ppm trong suốt thời gian nuôi.
– Tôm lờ đờ, giảm ăn hoặc bỏ ăn.
– Tốc độ tăng trưởng chậm.
– Trên thân xuất hiện nhiều đốm đen li ti hoặc mãng lớn màu đen, mang màu tối hoặc đen, đuôi mỏng, có thể có những tổn thương phụ bộ như mòn đuôi và vảy râu, cụt râu…
– Đối với những trường hợp bệnh nặng ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt, bề mặt thân tôm bị đốm đen có thể có mùi hôi.
Ở giai đoạn đầu của bệnh dấu hiệu lâm sàng dễ nhận thấy nhất là đàn tôm bắt đầu có hiện tượng tổn thương các phụ bộ như mòn đuôi, cụt râu. Tuy nhiên tôm vẫn ăn bình thường, không có bất kỳ biểu hiện nào cho thấy gan yếu, nhợt nhạt và đường ruột vẫn đầy thức ăn.
Một dấu hiệu cơ bản khác để phát hiện sớm bệnh là râu và đuôi của tôm chuyển sang màu đỏ (dấu hiệu nhiễm khuẩn nặng), đuôi có thể bị phồng nhẹ, nhưng các dấu hiệu tổn thương rõ ràng như trên chưa xuất hiện.
Bệnh đen mang, đốm đen, đốm nâu trong nuôi tôm
Giai đoạn kế tiếp của bệnh xuất hiện nhiều đốm đen rải rác trên vỏ tôm. Các đốm đen có thể xuất hiện cả trên giáp đầu ngực, và toàn thân tôm, nhiều trường hợp quan sát tôm chỉ thấy vài vết đen giữ lưng, đầu hoặc ở đuôi có gây hiểu nhầm do mật độ tôm cao nên đâm nhau trong quá trình hoạt động và gây tổn thương vỏ.
Giai đoạn này tôm bắt đầu giảm ăn dần đến bỏ ăn, tốc độ tăng trưởng chậm, chết rải rác trong ao, trong vó. Có thể xuất hiện tình trạng tôm bị trắng lưng, đục thân và lột xác không hoàn toàn (dính vỏ, dính chân).
Giai đoạn nặng hơn tỷ lệ chết tăng cao, tỷ lệ tôm xuất hiện đốm đen trên thân tăng cao và nhanh, có thể chiếm đến 70% đàn tôm. Gan tụy nhợt nhạt, tôm tấp mé, ruột rỗng (nhưng không phải là bệnh hoại tử gan tụy cấp tính EMS).
– Mật độ thả phù hợp với thiết kế cơ sở hạ tầng, hệ thống quạt nước cung cấp oxy, độ sâu mực ước ao nuôi, mùa vụ cũng nhưng kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật, mức độ am hiểu về tôm thẻ chân trắng của chính người nuôi.
– Điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp, tránh dư thừa sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh phát triển nhanh.
– Kiểm tra hàm lượng oxy trong ao nuôi thường xuyên để có biện pháp khắc phục tình trạng thiếu oxy cục bộ, kéo dài trong ao nuôi dễ gây stress cho tôm và qua đó ảnh hưởng đến sức khỏe tôm nuôi, dễ nhiễm bệnh.
Tùy theo cường độ cảm nhiễm của bệnh, sức khỏe tôm, và thời gian phát hiện bệnh mà các biện pháp chữa trị áp dụng có hiệu quả hay không. Phác đồ chữa trị chung cho bệnh đốm đen được thực hiện như sau:
Đối với môi trường nước:
– Tiến hành diệt khuẩn trong ao bằng sản phẩm TA-Supurdine phù hợp tùy theo giai đoạn tuổi tôm. Quá trình này có thể lập lại 2 – 3 lần tùy theo tỷ lệ nhiễm bệnh trong ao.
– Cấy vi sinh TA-Pondpro lại với hàm lượng cao sau 36 giờ diệt khuẩn. Có thể bổ sung mật rỉ đường để điều chỉnh pH và giảm hàm lượng khí độc trong ao.
– Tăng cường sục khí.
Đối với tôm:
– Giảm cho ăn từ 10 – 30% lượng cho ăn hằng ngày.
– Bổ sung TA- Vitamin C, TA-Feedmin tăng cường hệ miễn dịch cho tôm.
Bài viết Bệnh đen mang, đốm đen, đốm nâu trong nuôi tôm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trong nuôi tôm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Tác nhân gây bệnh được xác định là do một chủng vi khuẩn Vibrio parhaemolyticus đặc biệt có độc lực cao. Vi khuẩn xâm nhập vào đường ruột và tiết chất độc phá hủy gan tụy.
Tôm bệnh có khối gan tụy teo, gan tụy có màu nhợt nhạt đến trắng, ruột tôm không có thức ăn hoặc đứt đoạn, tôm thường mềm vỏ, tỷ lệ tôm chết cao. Thường xuất hiện trong giai đoạn mới thả đến 70 ngày tuổi.
Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trong nuôi tôm
Tôm thẻ chân trắng có dấu hiệu nhiễm bệnh Hoại tử gan tụy (A, B). Gan tụy (HP) teo, màu nhợt nhạt; dạ dày (ST) và ruột (MG) không có thức ăn. Hình(C, D) là tôm khỏe cho thấy HP có kích thước bình thường với màu da cam hơi tối, dạ dày và ruột đầy thức ăn. Hình (B) và (D) là mẫu lấy từ hai con tôm ở hình (A) và (C) tương ứng.
Chọn giống tốt, khỏe mạnh. Kiểm tra mật độ vi khuẩn Vibrio trong nước ao nuôi, trong đất và trên tôm giống để chắc chắn rằng mật số của Vibrio luôn ở mức an toàn.
Đạt hiệu quả cao khi mới phát hiện tôm nhiễm bệnh hoặc tôm ở mức độ cảm nhiễm dưới 20%:
+ Giảm 60% lượng thức ăn cho tôm.
+ Trộn TA-Betaglucan liều lượng 50g/1kg thức ăn.
+ Thay 50 – 60% nước trong ao trong 03 ngày.
+ Ủ (TA-Feedmin 1kg + T-Food 1kg + TA-Betaglucan 1kg + TAPondpro 0,5 kg)/ 1.000m3, ủ 5-6 tiếng rồi tạt xuống ao nuôi lúc 17-18h. Xử lý 3-5 ngày liên tục đến khi gan tôm ổn định trở lại tăng thức ăn dần.
Bài viết Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trong nuôi tôm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Cách phòng và trị tôm bị cong thân đục cơ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>– Đục cơ và cong thân: Xảy ra ở bất cứ giai đoạn tuổi nào, tình trạng sức khỏe tôm yếu. Tôm bị cong thân đồng thời cơ chuyển sang màu trắng đục. thường gặp lúc nhấc sàng ăn kiểm tra tôm. Bệnh
do thiếu khoáng chất thiết yếu như: Ca, Mn, P, Mg, …
– Đục cơ do thiếu oxy kéo dài: Tôm sống trong môi trường thiếu oxy kéo dài thì màu sắc cơ thể đục. Dấu hiệu quan trọng có thể nhận biết tôm thiếu oxy kéo dài là phần cơ bụng bị đục.
– Đục cơ do vi bào tử trùng: Thường gặp vào giai đoạn 15 – 20 ngày sau khi thả. Nhiều phần trên cơ thể có màu trắng đục hay màu sữa, các phần đục trên cơ thể lang rộng và thay thế dần phần cơ thịt, dạ dầy và gan tụy.
– Đục cơ do bệnh hoại tử cơ do virus: Bệnh thường xuất hiện ở tôm giai đoạn nhỏ do nhiểm virus (IMNV – Infectiuos Myonecrosis Virus). Đầu tiên xuât hiện vùng trắng đục ở đốt cuối cùng, sau đó đốt cuối trở nên hoại tử ( chuyển màu đỏ hoặc cam). Hiện chưa có thuốc điều trị.
– Bệnh cong thân, đục cơ thường xuất hiện ở tôm thẻ chân trắng 10 ngày tuổi trở lên, biểu hiện phần mô cơ chạy dọc theo cơ thể tôm trở nên trắng đục kèm theo hiện tượng cong thân. Bệnh này nếu không can thiệp kịp thời có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng.
Tôm bị cong thân đục cơ
– Bệnh hoại tử cơ biểu hiện ban đầu: phần cơ đuôi trở nên trắng đục, sau đó lan dần khắp cơ thể, ở giai đoạn nặng có thể dẫn đến hiện tượng hoại tử và đỏ ở phần cơ. Tôm chết và rớt đáy tỷ lệ khá cao.
– Khi nuôi tôm cần lưu ý tránh kiểm tra tôm, chài tôm, sang thưa ao vào lúc trời nắng, cung cấp đầy đủ oxy cho ao, tránh làm tôm sốc đột ngột. Ngoài yếu tố môi trường ra, bệnh đục cơ cong thân, nguyên nhân chính là do thiếu chất khoáng nên người nuôi tôm cần phải bổ sung khoáng định kỳ cho ao tôm. Bên cạnh đó, phải đảm bảo pH và độ kiềm ổn định trong ngưỡng cho phép.
– Trong quá trình nuôi người nuôi cần bổ sung định kỳ sử dụng khoáng N79 3 – 5kg/1.000 m3 nước. Cấy vi sinh TA- PONDPRO 0.5kg/ 1.500 – 2.000m3 nước vào lúc 8 – 9 giờ sáng.
– Kết hợp cho ăn bộ tứ dinh dưỡng bao gồm: T – FOOD + TA –FEEDMIN + TA.BETA – GLUCAN + TA – FOREVER) bao bọc bằng TA – BINDER sử dụng 5 – 10g/kg thức ăn, cho 4 cử trên ngày liên tục trong vụ nuôi. Việc dùng thuốc định kỳ sẽ tăng sức đề kháng, giúp tôm giảm nguy cơ nhiễm bệnh.
Bài viết Cách phòng và trị tôm bị cong thân đục cơ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Bài viết Nuôi tôm bị bệnh mềm vỏ, ăn yếu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>Do độ cứng trong nước thấp, độ kiềm thấp, thức ăn thiếu Canxi-Photpho không đủ chất tạo vỏ hoặc trong ao nuôi có khí độc cao làm tôm ăn yếu hoặc không ăn trong thời gian dài.
Bình thường tôm lột xác sau 2 – 4 giờ vỏ cứng lại, trường hợp tôm vẫn mềm vỏ kéo dài.
Luôn tạo môi trường sạch bằng cách sử dụng vi sinh định kỳ 0,5kg/ 3000-5000 m3 nước, định kỳ 5-7 ngày /lần vào 8-9h sáng.
Dùng 1 gói TA-KHOÁNG TẠT No.79 +1kg TA-FEEDMIN/1.000 ㎡, 1 ngày/lần vào lúc 1-2h sáng.
Sáng hôm sau 8-9h sử dụng TA-PONDPRO 1 gói/1.500 m3.
Thức ǎn: trộn TA-FOREVER, T-FOOD, TA-FEEDMIN, TA-BETAGLUCAN tăng lên 10g/ kg thức ăn.
Luôn tạo môi trường sạch bằng cách sử dụng vi sinh định kỳ 0,5kg/ 3.000-5.000 m3 nước, định kỳ 5-7 ngày/lần vào 8-9h sáng.
Bài viết Nuôi tôm bị bệnh mềm vỏ, ăn yếu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Cấp cứu tôm.
]]>